ĐỀ ÁN ĐÀO TẠO DIỄN VIÊN, NHẠC CÔNG CHO CÁC ĐƠN VỊ NGHỆ THUẬT TUỒNG, NGHỆ THUẬT CHÈO, NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG VÀ DÂN CA KỊCH CHUYÊN NGHIỆP TRONG CẢ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
Số/ký hiệu: 4363/QĐ-BVHTTDL
Ngày ban hành: 16/12/2015
Cơ quan ban hành: BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Loại văn bản: Quyết định
Toàn văn:
(Ban hành theo Quyết định số 4363/QĐ-BVHTTDL ngày 16 tháng 12 năm 2015
của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghệ thuật Tuồng, nghệ thuật Chèo, nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch đã là những loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo, hàm chứa những giá trị văn hóa tinh thần, vật chất của con người Việt Nam. Các loại hình nghệ thuật này được thể hiện bằng sự sáng tạo của người nghệ sỹ biểu diễn trực tiếp trước công chúng và được công chúng hưởng ứng sáng tạo cùng nghệ sỹ biểu diễn. Từ đó, công chúng được tiếp nhận những gía trị về tư tưởng, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm thông qua chức năng của văn học nghệ thuật.
Tuồng còn gọi là hát bội hay hát bộ, là bộ môn nghệ thuật được hình thành trên cơ sở các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân tộc. Ðến cuối thế kỷ XVIII, Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh về mọi mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn và trong thế kỷ XIX, Tuồng đã có một giai đoạn phát triển cực thịnh. Đến nay, Tuồng đã phổ biến trên quy mô toàn quốc với 07 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp hoạt động cả miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá dân gian phong phú lâu đời ở Việt Nam. Từ thế kỷ X, Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) đã hình thành nên loại hình nghệ thuật chèo và phát triển rộng ra khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ những làn điệu dân ca, Xẩm, Chầu văn, Ca trù, Trống quân, Quan họ, Đò đưa…hay nhịp điệu của các đám tế lễ, múa rước với những tiết tấu đặc trưng của các điệu múa dân tộc, màu sắc của của những bức tranh dân gian đã hoà quyện vào nhau để tạo nên phong cách riêng của nghệ thuật Chèo.
Trên con đường hình thành và phát triển, nghệ thuật Chèo đã tiếp nhận nhiều nhân tố mới cả về cấu trúc bài bản, làn điệu lẫn âm nhạc, múa và mỹ thuật… Những làn điệu dân ca các vùng, miền Trung, miền Nam, các dân tộc miền núi, thậm chí của cả nước khác trên thế giới được tiếp thu vào Chèo để phục vụ cho việc kể chuyện của Chèo thêm hấp dẫn; những thủ pháp sân khấu, cấu trúc kịch bản trong nghệ thuật kịch nói của phương Tây cũng được “Chèo hóa” mà vẫn giữ được bản sắc để phù hợp với sự thưởng thức không chỉ người dân đồng bằng Bắc bộ mà còn cả người dân Việt Nam nói chung một cách bền vững và đầy sức sống. Hiện cả nước có 18 đơn vị Nghệ thuật Chèo, tập trung ở miền Bắc tính từ Thanh Hóa trở ra.
Cải lương, một loại hình sân khấu kịch hát ra đời từ những năm đầu của thế kỷ XX, được hình thành dựa trên ý nghĩa của việc cải cách, thay đổi về sân khấu, về nghệ thuật biểu diễn, về giọng hát bắt nguồn từ nghệ thuật Hát Bội; Âm nhạc dựa trên cơ sở các bài bản truyền thống tài tử lưu truyền trên khắp các miền đồng bằng sông nước Cửu Long. Vào thập niên 60 - 70, nghệ thuật Cải lương phát triển ra các tỉnh miền Bắc và được coi là thời kỳ hưng thịnh nhất của nghệ thuật Cải lương. Ra đời sau Nghệ thuật Tuồng, Chèo nhưng nghệ thuật Cải lương đã nhanh chóng được công chúng đón nhận và đã trở thành một bộ môn nghệ thuật truyền thống trong nền nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Hiện nay chúng ta có 19 đơn vị nghệ thuật Cải lương chuyên nghiệp tập trung ở các tỉnh miền bắc và miền nam.
Dân ca kịch mới xuất hiện đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Tám. Dân ca kịch hình thành và phát triển dựa trên nền tảng các làn điệu dân ca, các hình thức diễn xướng văn hóa dân gian đặc sắc, đặc trưng cho mỗi vùng miền như Dân ca Bài chòi, dân ca Huế, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh…Hiện nay có 06 đơn vị nghệ thuật Dân ca kịch chuyên nghiệp đang hoạt động trên toàn quốc.
Nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch là những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc đã trải qua quá trình hình thành, phát triển và đi vào tâm thức người Việt hàng trăm năm nay. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống này đã không ngừng được tái tạo, phát huy và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương thức truyền miệng, truyền nghề là chủ yếu với nhiều hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo; là tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha để lại. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...; Nghệ thuật truyền thống được khẳng định là những di sản văn hóa tinh thần của dân tộc, là một trình thức quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể cùng không gian văn hóa liên quan có giá trị lịch sử và tính khoa học, thể hiện bản sắc của cả dân tộc cần được gìn giữ và phát huy.
Thế giới đang vận động theo xu hướng hội nhập. Những sản phẩm công nghệ hiện đã và đang tràn ngập thế giới, trở thành những điều không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Là những sản phẩm văn hóa của nền văn minh nông nghiệp, các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống đang mất dần khả năng hấp dẫn và cuốn hút người xem, khi nền công nghiệp hóa tác động mạnh mẽ vào đời sống xã hội. Mặt khác, những diễn tiến nghệ thuật truyền thống thường diễn ra chậm chạp trong khi diễn tiến của cuộc sống hiện tại trong thời đại ngày nay luôn luôn vận động và cạnh tranh khốc liệt. Đây là những vấn đề đáng lo ngại từ quá trình giao thoa giữa các nền văn hóa trong tiến trình hội nhập của xã hội hiện đại.
Làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của dân tộc; đẩy mạnh việc tuyên truyền, quảng bá văn hóa truyền thống của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế là một phần trách nhiệm của các đơn vị nghệ thuật truyền thống hiện nay. Để các loại hình nghệ thuật truyền thống hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình trong việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội cần phải xây dựng đội ngũ diễn viên, nhạc công có trình độ nghệ thuật, có bản lĩnh chính trị vững vàng bổ sung cho các đơn vị nghệ thuật trong toàn quốc. Đây là việc làm hết sức cần thiết để góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Việt trước làn sóng giao lưu và hội nhập quốc tế.
PHẦN THỨ NHẤT
TÍNH CẤP THIẾT, THỰC TRẠNG VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. TÍNH CẤP THIẾT
Trong quá trình hội nhập quốc tế, sức ép của cơ chế thị trường và sự bùng nổ các loại hình nghệ thuật giải trí đã gây áp lực không nhỏ cho nghệ thuật sân khấu truyền thống. Nhiều đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống hoạt động cầm chừng do không tìm được cách tiếp cận để quảng bá tác phẩm tới khán giả. Đội ngũ diễn viên, nhạc công trẻ không còn mặn mà với các bộ môn nghệ thuật truyền thống, họ theo đuổi các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại. Đây là nguyên nhân dẫn đến thực trạng các đơn vị nghệ thuật trong cả nước ngày càng thiếu hụt lực lượng nghệ sỹ diễn viên, nhạc công; các loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị mai một, biến dạng hoặc thất truyền.
Diễn viên là lực lượng trung tâm của sân khấu, nhưng hiện nay hầu hết các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống đang bị thiếu hụt lực lượng nghệ sỹ diễn viên và nhạc công. Nhiều năm qua, các cơ sở đào tạo không tuyển đủ chỉ tiêu sinh viên vào theo học các ngành nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống và nhạc công của khoa kịch hát dân tộc.
Trước tình hình thực tế trên đã dẫn đến thực trạng nhiều đơn vị nghệ thuật truyền thống không có những gương mặt nghệ sỹ trẻ để dàn dựng tác phẩm. Đội ngũ nghệ sỹ biểu diễn lành nghề hầu hết đã lớn tuổi, tình trạng khan hiếm tài năng trẻ ngày càng trở nên trầm trọng; tuổi trung bình của các nghệ sỹ diễn viên, nhạc công trong độ tuổi từ 20 đến 25 chiếm tỷ lệ là 5,6 % và độ tuổi từ 25 đến 30 % cũng chỉ chiếm tỷ lệ 42,3 %.
Việc truyền nghề của những lớp nghệ sỹ đi trước chưa được quan tâm; công tác phát triển nguồn nhân lực chưa được chú trọng nên đã ảnh hưởng nhiều tới sức sáng tạo của các đơn vị hoạt động biểu diễn nghệ thuật truyền thống dẫn đến sự khó khăn trong quá trình dàn dựng và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật; doanh thu từ các buổi biểu diễn kém, đời sống nghệ sỹ ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Thực tế cho thấy, các loại hình Nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch đang bị khủng hoảng nguồn nhân lực nên không giữ được vai trò, vị trí vốn có của nó trong đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống mà các thế hệ cha anh đã dày công vun đắp qua chiều dài lịch sử đang có nguy cơ mai một, thất truyền.
Để khắc phục tình trạng thiếu hụt diễn viên của các đơn vị nghệ thuật trên toàn quốc, việc xây dựng đề án Đào tạo diễn viên nghệ thuật sân khấu truyền thống cho các đơn vị nghệ thuật trong cả nước là một việc làm cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Đây là nguồn lực quan trọng bổ sung cho các đơn vị nghệ thuật để bảo tồn, gìn giữ, kế thừa, phát huy các giá trị của nghệ thuật truyền thống, đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập.
II. THỰC TRẠNG
Công tác đào tạo và tuyển dụng nhân lực cho nghệ thuật truyền thống trong những năm gần đây gặp rất nhiều khó khăn. Những người có năng khiếu bẩm sinh, có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống không tham gia dự tuyển vào các trường đào tạo nghệ thuật. Các thầy giỏi nghề, có phương pháp sư phạm và kinh nghiệm lâu năm không còn nhiều, một số giảng viên trẻ chưa có kinh nghiệm làm nghề nên chất lượng đào tạo thấp, nhiều diễn viên ra trường phải đào tạo lại tại các đơn vị nghệ thuật vì non kém về chuyên môn kể cả về lý thuyết và thực hành.
Để giải quyết sự thiếu hụt lực lượng nghệ sỹ, các đơn vị nghệ thuật truyền thống trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã xin cơ chế tổ chức đào tạo diễn viên theo phương pháp truyền nghề tại đơn vị. Hiện tại Nhà hát Tuồng Việt Nam có 36 học sinh, Nhà hát Chèo Việt Nam có 30 học sinh. Thời gian đào tạo đối với Nghệ thuật Tuồng trong 4 năm, nghệ thuật Chèo trong 3 năm; Hiện còn lại 47/49 đơn vị nghệ thuật truyền thống chuyên nghiệp trong cả nước đang rất cần lực lượng nghệ sỹ biểu diễn kế cận để khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực và thay thế lớp nghệ sỹ đã lớn tuổi, không đảm bảo sức khỏe để làm nghề. Những năm qua, nhiều đơn vị nghệ thuật đã phải thuê, mượn sinh viên các trường văn hóa nghệ thuật, các trung tâm văn hóa để dàn dựng tác phẩm tham dự các cuộc thi, liên hoan nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.
Một số diễn viên được đào tạo qua hình thức truyền nghề tại các câu lạc bộ, nhóm nghệ thuật gia đình nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu khi tham gia cộng tác trong các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp. Hình thức truyền nghề đã góp phần duy trì nghệ thuật truyền thống hoạt động ở các Câu lạc bộ không chuyên, chưa có sự đầu tư chất lượng nghệ thuật và định hướng của nhà nước.
1. Thực trạng về lực lượng nghệ sỹ biểu diễn (diễn viên, nhạc công): là lực lượng trung tâm của sân khấu nghệ thuật truyền thống, người diễn viên, nhạc công đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia vào quá trình sáng tạo nên tác phẩm sân khấu nghệ thuật sân khấu. Tại các đơn vị nghệ thuật truyền thống hiện nay, đa số nghệ sỹ là diễn viên, nhạc công đã lớn tuổi. Một số diễn viên, nhạc công có trình độ chuyên môn đang kiêm nhiệm công tác quản lý nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng các chương trình nghệ thuật. Một số khác, diễn viên, nhạc công đã hết tuổi làm nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu (do bất cập về cơ chế chính sách nên chưa thể giải quyết được vấn đề này). Vì vậy, nguồn nhân lực tính theo chỉ tiêu biên chế được giao cơ bản là đủ, nhưng trên nên thực tế lại thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực khi triển khai dàn dựng và biểu diễn tác phẩm bởi số lượng nghệ sỹ tuổi cao, không còn sức làm nghề chiếm số đông trong biên chế.
Phần lớn lực lượng diễn viên hiện nay có trình độ Trung cấp được đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghệ thuật chuyên nghiệp trong cả nước. Nghệ sỹ diễn viên, nhạc công có trình độ Đại học chiếm tỷ lệ khoảng từ 17 đến 22%. Bên cạnh những nghệ sỹ tài năng thành danh hoạt động lâu năm đã xuất hiện các tài năng trẻ sân khấu được khẳng định qua các cuộc thi Tài năng trẻ sân khấu toàn quốc nhưng kinh nghiệm, kiến thức chung về lịch sử, văn hoá nghệ thuật thuộc ngành, lĩnh vực còn non yếu và chưa đủ trí, lực để đảm đương những vai diễn trong cả một chương trình, vở diễn.
Thực tế cho thấy, các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống đang thiếu tài năng trẻ sân khấu biểu diễn; nhiều đơn vị hoạt động cầm chừng, chỉ đáp ứng đủ chỉ tiêu đêm diễn được giao và phục vụ công tác chính trị, lễ tết, vùng sâu vùng xa; Nhiều năm không dàn dựng được tác phẩm nghệ thuật đạt chất lượng cao vì thiếu hụt lực lượng nghệ sỹ biểu diễn.
2. Thực trạng về công tác đào tạo
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, cải tiến phương pháp dạy và học, kết hợp với truyền nghề nhưng vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả; công tác tuyên truyền về chủ trương và chiến lược đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực cho các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống chưa tốt. Mô hình đào tạo theo hướng xã hội hóa xuất hiện tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn nhưng chỉ thích hợp với các loại hình nghệ thuật khác, cả nước chưa có mô hình đào tạo diễn viên nghệ thuật sân khấu truyền thống theo phương thức xã hội hóa.
Nguồn tuyển sinh cho sân khấu truyền thống thời gian qua đều ở tình trạng báo động vì thưa vắng thí sinh đăng ký. Mặc dù Nhà nước đã có chế độ ưu đãi giảm 70% học phí cho sinh viên theo học sân khấu truyền thống, hằng tháng có tiền bồi dưỡng nghề, được cấp quần áo tập và các phương tiện học tập khác nhưng số lượng thí sinh thi vào các chuyên ngành nghệ thuật truyền thống vẫn ngày càng giảm. Nhiều cơ sở đào tạo không tuyển đủ chỉ tiêu. Một số sơ sở đào tạo tuyển sinh để lấp kín chỉ tiêu nên chất lượng thí sinh yếu, không đáp ứng các tiêu chí để theo học nghệ thuật.
Lực lượng giáo viên còn hạn chế về số lượng và chất lượng; giáo trình giảng dạy nặng về lý luận và các môn kiến thức cơ bản, dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp về công tác tại các đơn vị nghệ thuật phải đào tạo nâng cao mới đảm nhận được các vai diễn.
Nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương, Dân ca kịch là những bộ môn nghệ thuật mang tính đặc thù cao, việc truyền dạy một thầy một trò từ những nghệ sỹ đã thành danh là phương pháp hầu hết các đơn vị nghệ thuật truyền thống đang thực hiện. Đây là phương pháp mà ông cha ta trước đây đã truyền dạy cho các lớp kế cận, nhiều nghệ sỹ thành danh hiện nay cũng đã phải trải qua quá trình truyền nghề theo phương pháp này. Các nước có nền nghệ thuật truyền thống phát triển trên thế giới cũng đào tạo một thầy một trò từ tuổi thiếu niên theo phương pháp truyền thống, nên đã tạo ra những thế hệ diễn viên trẻ tài năng sau mỗi khoá học.
Tiêu chí đánh giá tài năng của người nghệ sỹ biểu diễn sân khấu truyền thống chính cần phải được thể hiện qua: thanh, sắc, thục, tinh, khí, thần. Đây là những tiêu chí của người nghệ sỹ không thể tự nhiên có được mà phải được tôi luyện qua quá trình đào tạo, sự khổ luyện và kinh nghiệm tích lũy qua sự truyền dạy.
III. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Cơ sở pháp lý.
Đề án xây dựng trên cơ sở các căn cứ pháp lý sau:
- Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị với quan điểm chỉ đạo: “Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc”. Mục tiêu của Nghị quyết đã đặt ra: “Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta”.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”, lần đầu tiên Đảng ta đã nhấn mạnh quan điểm: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Nghị quyết còn nêu: Nhiệm vụ xây dựng và phát triển con người Việt Nam toàn diện theo hướng "Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng. Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"
- Quyết định số 581/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 6 tháng 5 năm 2009 ban hành “Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020” đã thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển văn hoá, xác định mục tiêu và các giải pháp chủ yếu để thực hiện Nghị quyết số 23/NQ-TW của Bộ Chính trị, cụ thể, coi một trong các mục tiêu trọng tâm đến năm 2020 là: “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là nhiệm vụ then chốt của chiến lược phát triển văn hoá, trong đó có các loại hình nghệ thuật truyền thống”.
- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quyết định số 1456/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030" .
- Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 30 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, giai đoạn 2011 - 2020.
- Quyết định số 1243/QĐ-TTg ngày 25 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011 - 2020”.
- Thông tư số 22/2014/TT-BGDĐT ngày 09 tháng 07 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư ban hành Quy chế đào tạo trung cấp chuyên nghiệp.
- Quyết định số 41/2014/QĐ-TTg ngày 21 tháng 07 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hóa-nghệ thuật.
- Quyết định 3378/QĐ-BVHTTDL ngày 05 tháng 10 năm 2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc Giao Cục Nghệ thuật biểu diễn chủ trì phối hợp với Vụ Kế hoạch, Tài chính, Vụ Đào tạo, Vụ Tổ chức cán bộ và các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng "Đề án đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật Tuồng, nghệ thuật Chèo, nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch chuyên nghiệp trong cả nước giai đoạn 2016 - 2020".
2. Cơ sở thực tiễn
a. Số lượng các đơn vị Nghệ thuật Tuồng, nghệ thuật Chèo, nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch
Nghệ thuật sân khấu truyền thống Tuồng có 07 đơn vị phân bố ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, trong đó có 04 nhà hát, 01 Đoàn nghệ thuật và 02 đoàn nghệ thuật trực thuộc nhà hát gồm:
- Nhà hát Tuồng Việt Nam;
- Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế.
- Nhà hát Tuồng Đào Tấn;
- Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh;
- Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội Tp. HCM.
- Đoàn Nghệ thuật Tuồng Thanh Hóa;
- Đoàn Tuồng thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa.
Nghệ thuật sân khấu truyền thống Chèo có 18 đơn vị: 11 nhà hát Chèo, 04 Đoàn Chèo và 03 Đội Chèo thuộc đoàn nghệ thuật tổng hợp phân bố tập trung ở các tỉnh phía bắc gồm:
- Nhà hát Chèo Việt Nam;
- Nhà hát Chèo Hà Nội;
- Nhà hát Chèo Quân đội;
- Nhà hát Chèo Vĩnh Phúc;
- Nhà hát Chèo Bắc Giang;
- Nhà hát Chèo Hưng Yên;
- Nhà hát Chèo Hải Dương;
- Nhà hát Chèo Thái Bình;
- Nhà hát Chèo Nam Định;
- Nhà hát Chèo Hà Nam;
- Nhà hát Chèo Ninh Bình;
- Đoàn Chèo Phú Thọ;
- Đoàn Chèo Quảng Ninh;
- Đoàn Chèo Hải Phòng;
- Đoàn Chèo Thanh Hoá.
- Đội Chèo thuộc Đoàn Nghệ thuật tỉnh Yên Bái;
- Đội Chèo thuộc Đoàn Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên;
- Đội Chèo thuộc Đoàn Nghệ thuật dân tộc tỉnh Tuyên Quang.
Nghệ thuật sân khấu Cải lương có 19 đơn vị phân bố chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng bắc bộ và Nam bộ gồm:
- Nhà hát Cải lương Việt Nam ;
- Nhà hát Cải lương Hà Nội;
- Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang;
- Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Đồng Nai;
- Đoàn Cải lương Hải phòng
- Đoàn Cải lương Quảng Ninh
- Đoàn Cải lương Thái Bình
- Đoàn Cải lương Nam Định
- Đoàn Cải lương Thanh Hóa
- Đoàn Cải lương Hương Tràm tỉnh Cà Mau;
- Đoàn Cải lương Tây Đô thuộc Nhà hát Tây Đô tỉnh Cần Thơ;
- Đoàn nghệ thuật Cải lương Long An;
- Đoàn văn công Đồng Tháp;
- Đoàn nghệ thuật Cải lương Bến Tre;
- Đoàn Cải lương Ánh Hồng tỉnh Trà Vinh;
- Đoàn Cải lương nhân dân Kiên Giang;
- Đoàn Cải lương Cao Văn Lầu tỉnh Bạc Liêu;
- Đoàn Cải lương An Giang;
- Đoàn nghệ thuật Cải lương Tây Ninh.
Nghệ thuật Dân ca kịch có 06 đơn vị ở các tỉnh miền trung gồm:
- Nhà hát Dân ca Nghệ An thuộc Trung tâm Bảo tồn và Phát huy di sản dân ca xứ Nghệ;
- Nhà hát nghệ thuật truyền thống Hà Tĩnh
- Nhà hát nghệ thuật Ca kịch Huế;
- Đoàn Dân ca kịch Quảng Nam;
- Đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định;
- Đoàn Dân ca kịch thuộc Nhà hát nghệ thuật truyền thống tỉnh Khánh Hòa.
b. Về cơ sở vật chất hiện có phục vụ công tác đào tạo
Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có 12 cơ sở đào tạo Văn hóa, nghệ thuật trên cả nước và được phân bố ở khắp ba miền Bắc, Trung và Nam bộ. Cơ sở vật chất của các đơn vị đào tạo khá tốt, đảm bảo đáp ứng điều kiện ăn ở, học tập của học sinh theo học lớp đào tạo diễn viên, nhạc công của các loại hình nghệ thuật truyền thống. Học sinh sẽ tham gia học tập tại các cơ sở đào tạo, đơn vị nghệ thuật sau:
- Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội;
- Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh;
- Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật (thuộc Sở VHTTDL Đà Nẵng);
- Trường Trung cấp nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ Việt Nam;
- Nhà hát Chèo Việt Nam;
- Nhà hát Tuồng Việt Nam;
- Nhà hát Cải lương Việt Nam;
- Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh;
- Các đơn vị nghệ thuật truyền thống trên toàn quốc.
PHẦN THỨ HAI
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
QUAN ĐIỂM
- Đổi mới hình thức tuyển sinh:
Đề án đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công nghệ thuật Tuồng, nghệ thuật Chèo, nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch cho các đơn vị nghệ thuật trong cả nước là chương trình đào tạo chuyên sâu, mang tính đặc thù. Từ trước đến nay, các cơ sở đào tạo nghệ thuật truyền thống thường tuyển học sinh theo học diễn viên, nhạc công đã tốt nghiệp lớp 12 Phổ thông trung học, ở lứa tuổi này sau khi học xong chương trình đào tạo nghệ thuật truyền thống các em đã 22 - 23 tuổi. Vì vậy, khi trở về đơn vị công tác đến lúc trở thành diễn viên thực sự hội tụ đủ tiêu chí “thanh, sắc, thục, tinh, khí, thần” thì các em tuổi đã cao. Chính vì vậy, Đề án sẽ tập trung tuyển các em có năng khiếu, vừa tốt nghiệp Trung học cơ sở trong độ tuổi 14 - 15 để đào tạo. Sau khi học xong khóa đào tạo các em sẽ trở thành diễn viên, nhạc công chuyên nghiệp và tốt nghiệp phổ thông trung học ở độ tuổi 17 - 18. Đây là độ tuổi “vàng” để các em trở về công tác tại đơn vị nghệ thuật và có thêm thời gian tích lũy kinh nghiệp thực tế, kéo dài tuổi nghề trong cuộc đời nghệ sỹ.
Các nhà hát, đoàn nghệ thuật sân khấu truyền thống đề xuất số lượng thí sinh tuyển sinh dựa trên nhu cầu thực tế của đơn vị và chủ động sơ tuyển tại địa phương theo hướng dẫn của Cục Nghệ thuật biểu diễn. Cục Nghệ thuật biểu diễn sẽ trực tiếp phối hợp với các cơ quan, đơn vị nghệ thuật truyền thống, các chuyên gia tổ chức vòng chung tuyển tại địa phương.
Học sinh trúng tuyển được nhà nước bao cấp toàn bộ kinh phí đào tạo trong suốt thời gian học tập, 04 năm đối với Nghệ thuật Tuồng, 03 năm đối với Nghệ thuật Chèo, nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch; Sau khi được nhà nước đào tạo, các em sẽ trở thành diễn viên, nhạc công chuyên nghiệp, được phân bổ về các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp trong cả nước. Thí sinh được tuyển chọn ở địa phương nào phải trở về công tác tại đơn vị nghệ thuật thuộc địa phương đó.
- Đổi mới phương pháp đào tạo và nội dung đào tạo
Để đổi mới phương pháp dạy và học, ngoài đội ngũ giáo viên giảng dạy tại các trường văn hóa nghệ thuật, Ban Tổ chức mời các nghệ sỹ đã thành danh, giáo viên có uy tín, tâm huyết trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống hiện đang công tác tại các đơn vị nghệ thuật tham gia giảng dạy và truyền nghề cho các học sinh. Đây là việc làm có ý nghĩa quan trọng trong công tác sử dụng trí thức, trọng dụng nhân tài; tận dụng được kinh nghiệm, khả năng chuyên môn của
các nghệ sỹ lão thành, nâng cao chất lượng đào tạo các thế hệ nghệ sỹ biểu diễn
kế cận.
Chương trình học tập theo hướng tinh giản, hạn chế những kiến thức hàn lâm, giảm thiểu bài giảng mang tính lý thuyết, dành nhiều thời gian cho việc học chuyên môn. Tạo điều kiện cho học sinh hoạt động thực hành biểu diễn nghệ thuật dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các nghệ sỹ. Phát huy tối đa năng khiếu của học sinh, rèn luyện kỹ năng và hình thành năng lực tự học, tính độc lập sáng tạo và sự phối hợp trong sáng tạo tập thể của học sinh.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao để khắc phục sự thiếu hụt lực lượng diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong cả nước; góp phần bảo tồn và và phát huy giá trị của các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, tiếp thu những giá trị mới để bổ sung, làm giầu thêm các giá trị nghệ thuật của cha ông trước nguy cơ mai một, biến dạng hoặc thất truyền của các loại hình nghệ thuật truyền thống; tạo điều kiện cho các đơn vị nghệ thuật truyền thống có đủ lực lượng sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ chính trị, sáng tạo ra nhiều tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân trong thời kỳ mới.
2. Mục tiêu cụ thể
- Đào tạo theo hình thức tập trung hệ Trung cấp chính quy chuyên ngành diễn viên và nhạc công kịch hát dân tộc;
- Năm 2016 tuyển sinh đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công đối với loại hình nghệ thuật sân khấu Tuồng và sân khấu Chèo;
- Năm 2017 tuyển sinh đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công đối với loại hình nghệ thuật sân khấu Cải lương và Dân ca kịch;
- Sau khi tốt nghiệp, học sinh được cấp bằng Trung cấp diễn viên nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch hoặc nhạc công kịch hát chuyên nghiệp. Đây là lớp diễn viên, nhạc công có đủ điều kiện về tiêu chuẩn ngạch bậc, đáp ứng tiêu chuẩn để thi tuyển viên chức tại các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống; được bố trí làm việc trong các đơn vị nghệ thuật tại quê hương của các em;
- Sau thời gian công tác, cống hiến tại các đơn vị nghệ thuật truyền thống, diễn viên có thể tiếp tục học tập chuyên ngành nghệ thuật ở bậc Cao đẳng, Đại học, khi được đơn vị chủ quản đồng ý;
- Trường hợp học sinh đang học trung học phổ thông được tiếp tục đào tạo kiến thức văn hóa Trung học phổ thông theo chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN.
1. Đối tượng, tiêu chí và số lượng tuyển sinh
1.1. Đối tượng tuyển sinh
Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 14 đến 16 đã tốt nghiệp Trung học cơ sở, đáp ứng những tiêu chí tuyển sinh, đào tạo về chuyên ngành nghệ thuật truyền thống (tại mục 1.2).
1.2. Tiêu chí tuyển sinh
- Thí sinh tham gia dự tuyển phải có năng khiếu một trong các loại hình nghệ thuật sân khấu Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch.
a) Đối với thí sinh dự tuyển diễn viên:
- Có hình thức cân đối, hài hòa, không có khuyết tật về hình thể, có sức khỏe tốt;
- Có khả năng cảm thụ âm nhạc, khả năng thẩm âm, tiết tấu tốt;
- Có tiếng nói tốt, rõ ràng, không nói ngọng, nói lắp; có giọng hát tốt, âm thanh vang, đầy đặn; không sử dụng các thiết bị kỹ thuật để hỗ trợ âm thanh (Micro);
- Thí sinh nữ khi dự tuyển không mặc áo dài dân tộc, không mặc váy và không trang điểm.
b) Đối với thí sinh dự tuyển nhạc công kịch hát dân tộc:
- Có sức khỏe tốt, không bị khuyết tật;
- Có khả năng cảm thụ âm nhạc, khả năng thẩm âm, tiết tấu tốt, ưu tiên các thí sinh có khả năng chơi một hoặc nhiều loại nhạc cụ truyền thống;
- Nghệ thuật Tuồng: ưu tiên thí sinh biết sử dụng một hay nhiều loại nhạc cụ sau: Bộ gõ (trống Chầu, trống chiến, trống lệnh, thanh la, cồng, mõ...); Kèn bóp, đàn Nhị, đàn Hồ, đàn Tứ đại, đàn Bầu...;
- Nghệ thuật Chèo: ưu tiên thí sinh biết sử dụng một hay nhiều loại nhạc cụ sau: Bộ gõ (trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ, chũm chọe); đàn Bầu, đàn Nguyệt, Sáo trúc, đàn Tranh, Tam thập lục, Tiêu…;
- Nghệ thuật Cải lương: ưu tiên thí sinh biết sử dụng một hay nhiều loại nhạc cụ sau: đàn Kìm, đàn Tranh, đàn Cò, đàn Ghi-ta, (ngoài ra có thể sử dụng thêm các loại nhạc cụ khác như: Đàn sến, Violon, sáo, tiêu..);
- Các loại hình nghệ thuật Dân ca kịch: ưu tiên thí sinh biết sử dụng một hay nhiều loại nhạc cụ như: đàn Bầu, đàn Nguyệt, Sáo trúc, đàn Tranh, Tam thập lục…
1.3. Số lượng tuyển sinh
- Đối với nghệ thuật Tuồng, Chèo: mỗi đơn vị tuyển 15 diễn viên và 05 nhạc công.
- Đối với nghệ thuật Cải lương, Dân ca kịch: mỗi đơn vị tuyển 10 diễn viên và 03 nhạc công.
2. Thời gian tuyển sinh
a. Đối với nghệ thuật Tuồng, Chèo
- Sơ tuyển: tháng 06 đến tháng 07 năm 2016.
- Chung tuyển: tháng 07 đến tháng 08 năm 2016.
b. Đối với nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch
- Sơ tuyển: tháng 06 đến tháng 07 năm 2017
- Chung tuyển: tháng 07 đến tháng 08 năm 2017.
3. Thời gian đào tạo
- Đối với nghệ thuật Tuồng (04 năm): Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 6 năm 2020.
- Đối với nghệ thuật Chèo (03 năm): Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 6 năm 2019.
- Đối với nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch (03 năm): Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 6 năm 2020.
Học sinh tập trung đào tạo theo Quy định tại Thông tư số 22/2014/TT-BGDĐT ngày 09 tháng 07 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về Quy chế đào tạo trung cấp chuyên nghiệp.
4. Địa điểm đào tạo
4.1. Đào tạo chuyên ngành
a) Nghệ thuật Tuồng, Chèo: học sinh học tập tại Trường Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, (Khu Văn hóa nghệ thuật, Phường Mai Dịch, Quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội).
b) Nghệ thuật Cải lương: học sinh các tỉnh phía Bắc học tập tại Trường Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội; học sinh các tỉnh phía Nam học tập tại Trường Sân khấu - Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh, (địa chỉ: 125 Cống Quỳnh, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh)
c) Nghệ thuật Dân ca kịch: học sinh học tập tại Trường Trung học văn hóa Nghệ thuật Đà Nẵng (địa chỉ: Tổ 19, Phường Mỹ An, Quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, Mỹ An, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng).
4.2. Đào tạo kiến thức văn hóa Trung học phổ thông:
Ban Tổ chức thực hiện đề án liên kết với các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng để đào tạo chương trình phổ thông trung học cho các học sinh.
5. Khu vực tuyển sinh và phương thức xét tuyển
5.1. Khu vực tuyển sinh
Tuyển sinh tại 35 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong toàn quốc.
- Đối với nghệ thuật Tuồng: các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Bình Định và Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đối với nghệ thuật Chèo: các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thanh Hóa, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Yên Bái, Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
- Đối với nghệ thuật Cải lương: các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Đồng Nai, Long An, Đồng Tháp, Bến Tre, Kiên Giang, Bạc Liêu, thành phố Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Cần Thơ, Tây Ninh và Cà Mau.
- Đối với loại hình nghệ thuật Dân ca kịch: các tỉnh thành: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Bình Định và Khánh Hòa.
5.2. Phương thức xét tuyển
Thí sinh đăng ký tham gia tuyển sinh được xét tuyển qua 02 vòng.
- Vòng Sơ tuyển
Ban Tổ chức có văn bản hướng dẫn và phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố chỉ đạo các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch thông báo, tiếp nhận hồ sơ, thành lập Hội đồng và chủ động tổ chức công tác triển khai vòng sơ tuyển tại địa phương.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Văn hóa, Thể thao các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo kết quả sơ tuyển về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. (Các văn bản báo cáo gửi qua Cục Nghệ thuật biểu diễn).
Thí sinh đăng ký tham gia dự tuyển theo thông báo của Ban Tổ chức tại các tỉnh, thành phố có các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống đóng trên địa bàn. Thí sinh ở tỉnh, thành phố khác (ngoài 35 tỉnh, thành phố tại mục 5.1. Phần II) đăng ký tuyển sinh tại các tỉnh, thành phố gần nơi thí sinh cư trú.
Các đơn vị nghệ thuật chủ động bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên môn đối với các thí sinh đã vượt qua vòng sơ tuyển, đảm bảo các điều kiện để tham dự vòng chung tuyển.
- Chung tuyển
- Hội đồng giám khảo - Cục Nghệ thuật biểu diễn trực tiếp tới các địa phương phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố có đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống để thực hiện vòng chung tuyển.
- Thí sinh chung tuyển diễn viên nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch phải dự thi 02 bộ môn sau:
+ Môn 1: Hát theo nhạc chuyên ngành và theo cữ giọng quy định, kiểm tra thẩm âm tiết tấu. Múa các động tác theo yêu cầu của Hội đồng giám khảo.
+ Môn 2: Tự chuẩn bị và biểu diễn một tiểu phẩm tùy chọn theo chuyên ngành không có nhân vật thứ 2, thời gian quy định không quá 10 phút.
- Thí sinh chung tuyển nhạc công kịch hát dân tộc chuyên ngành nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch phải dự thi 02 bộ môn sau:
+ Môn 1: Trình bày từ 01 (một) đến 02 (hai) bài bản hoặc làn điệu âm nhạc truyền thống (không có nhạc đệm)
+ Môn 2: Kiểm tra năng khiếu, thẩm âm và tiết tấu.
6. Nội dung đào tạo
6.1. Đào tạo kiến thức văn hóa phổ thông
Thí sinh tham dự lớp Đào tạo diễn viên nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch được tiếp tục học Trung học phổ thông theo chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Các em được học các môn: Toán học, Vật lí, Hóa học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí; Các môn kiến thức chung: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Chính trị, Ngoại ngữ, Tin học, Giáo dục thể chất, Giáo giục Quốc phòng - An ninh… Kết thúc cấp học, học sinh được cấp bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
6.2. Đào tạo kiến thức cơ bản
a) Đối với các em theo học chuyên ngành diễn viên nghệ thuật truyền thống được học các môn: Lịch sử Sân khấu Việt Nam, Lịch sử Sân khấu thế giới, Sân khấu học đại cương, Âm nhạc cơ bản, Giải phóng hình thể…
b) Đối với các em theo học chuyên ngành nhạc công kịch hát dân tộc được học các môn: Lịch sử âm nhạc thế giới, Lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc lý - Ký xướng âm, Cấu trúc bài bản âm nhạc truyền thống, Hòa thành cổ điển châu Âu, Phương pháp tòng giai điệu…
6.3. Đào tạo kiến thức, kỹ năng chuyên môn
a) Đối với các em theo học diễn viên nghệ thuật truyền thống được học các môn: Hát theo chuyên ngành, Múa theo chuyên ngành, Kỹ thuật biểu diễn chuyên ngành, Luyện tập các vai diễn mẫu theo chuyên ngành và Hóa trang. ..
b) Đối với các em theo học nhạc công kịch hát dân tộc được học các môn: Kỹ thuật diễn tấu nhạc cụ cơ bản theo chuyên ngành (Trống, kèn, nhị, hồ, nguyệt, bầu, sáo, thập lục….), Kỹ thuật phối hợp cùng với diễn viên hát, Kỹ thuật hòa tấu…
Sau khi hoàn thành khóa học, tốt nghiệp ra trường, học sinh được cấp bằng Trung cấp diễn viên nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch hoặc nhạc công kịch hát chuyên nghiệp.
6.4. Khung chương trình đào tạo và kế hoạch học tập
- Đào tạo diễn viên, nhạc công nghệ thuật Tuồng, (Phụ lục 1)
- Đào tạo diễn viên, nhạc công nghệ thuật Chèo (Phụ lục 2)
- Đào tạo diễn viên, nhạc công nghệ thuật Cải lương (Phụ lục 3)
- Đào tạo diễn viên, nhạc công loại hình nghệ thuật Dân ca kịch (phụ lục 4).
7. Đội ngũ giảng viên chuyên ngành
- Giảng viên Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh và các trường nghệ thuật trên toàn quốc.
- Mời các nghệ sỹ thành danh, nghệ nhân giầu kinh nghiệm biểu diễn, có uy tín đối với nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương, Dân ca kịch đã và đang công tác tại các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong cả nước truyền nghề cho các học sinh.
PHẦN BA
KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I. KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI
Đề án đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch chuyên nghiệp triển khai thực hiện trong 04 năm. Cụ thể: Năm 2016 triển khai tuyển sinh, đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật Tuồng, nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp; Năm 2017 triển khai tuyển sinh, đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật Cải lương và Dân ca kịch chuyên nghiệp.
- Quý I năm 2016, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức; ban hành Kế hoạch chi tiết, hướng dẫn việc triển khai thực hiện đề án đào tạo diễn viên, nhạc công nghệ thuật sân khấu truyền thống tới các cơ quan, đơn vị có liên quan;
- Căn cứ Kế hoạch, Sở Văn hoá và Thể thao; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các đơn vị nghệ thuật truyền thống trực thuộc rà soát lại đội ngũ diễn viên, nhạc công để làm cơ sở đề xuất số lượng cần đào tạo của địa phương; báo cáo nhu cầu đào tạo của các đơn vị địa phương lên Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (qua Cục Nghệ thuật biểu diễn);
- Quý II năm 2016, Sở Văn hoá và Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thành lập Hội đồng, tổ chức sơ tuyển; báo cáo kết quả sơ tuyển tại địa phương về Cục Nghệ thuật biểu diễn;
- Quý III năm 2016, Hội đồng tuyển sinh Cục Nghệ thuật biểu diễn phối hợp với Sở Văn hoá và Thể thao; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức chung tuyển đối với những thí sinh đã vượt qua vòng sơ tuyển tại địa phương;
- Quý IV năm 2016, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định công nhận kết quả trúng tuyển; thành lập Ban Quản lý Đào tạo diễn viên, nhạc công Nghệ thuật truyền thống; gửi giấy thông báo triệu tập học sinh trúng tuyển tới Sở Văn hoá và Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố và các đơn vị nghệ thuật truyền thống trên cả nước, các học sinh trúng tuyển để theo học lớp đào tạo diễn viên, nhạc công theo chương trình Đào tạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án.
1.1. Cơ quan chỉ đạo: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch,
1.2. Cơ quan quản lý và chủ trì thực hiện: Cục Nghệ thuật biểu diễn.
1.3. Cơ quan, đơn vị phối hợp tổ chức thực hiện:
- Uỷ ban nhân dân, Sở Văn hoá, Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có đơn vị nghệ thuật truyền thống trên địa bàn.
- Vụ Kế hoạch, Tài chính, các Cục, Vụ có liên quan thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
1.4. Các cơ sở đào tạo nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thành phố Đà Nẵng và các tỉnh có liên quan.
2. Trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị liên quan.
2.1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành các văn bản chỉ đạo đối với các cơ quan, cơ sở đào tạo và đơn vị nghệ thuật có liên quan về chủ trương đào tạo diễn viên, nhạc công cho các đơn vị nghệ thuật nghệ thuật sân khấu truyền thống chuyên nghiệp trong cả nước.
2.2. Cục Nghệ thuật biểu diễn
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn về công tác Tổ chức tuyển sinh, các văn bản chỉ đạo, phối hợp thực hiện công tác tuyển sinh, đào tạo trong thời gian thực hiện đề án;
- Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chỉ đạo các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong cả nước tổ chức vòng chung tuyển tại địa phương;
- Thông báo trên trang Thông tin điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Nghệ thuật biểu diễn, cơ sở đào tạo Nghệ thuật, các đơn vị nghệ thuật sân khấu truyền thống trong cả nước; các phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, phương thức xét tuyển và các nội dung liên quan khác;
- Chịu trách nhiệm phối hợp với các cơ sở đào tạo Nghệ thuật, các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng dự trù kinh phí tổ chức thực hiện và kinh phí đào tạo chi tiết theo kế hoạch hàng năm trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt và bố trí nguồn kinh phí triển khai thực hiện.
2.3. Vụ Kế hoạch, Tài chính
Bố trí nguồn kinh phí hàng năm từ 2016 đến 2020 để triển khai thực hiện đề án.
2.4. Vụ Đào tạo
Kiểm tra, giám sát chương trình và chất lượng đào tạo
2.5. Sở Văn hóa và Thể thao; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Là đơn vị chủ trì, triển khai kế hoạch tuyển sinh tại địa phương, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện đề án từ năm 2016 đến năm 2020 tới các đơn vị nghệ thuật địa phương để đạt được hiệu quả trong công tác điều hành;
- Chỉ đạo các đơn vị nghệ thuật thực hiện Nghị định số 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2014, Thông tư liên tịch số 01/2015/TTLT-BNV-BTC ban hành ngày 14 tháng 4 năm 2015 của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính về chính sách tinh giản biên chế để áp dụng việc nghỉ hưu sớm đối với công chức, viên chức, đối tượng là diễn viên, nhạc công không còn khả năng biểu diễn, làm nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu; dành chỉ tiêu biên chế để tiếp nhận lực lượng diễn viên, nhạc công trẻ đã được đào tạo;
- Đề nghị với Ủy ban nhân dân và các cơ quan chức năng có cơ chế đặc thù để tuyển dụng, tiếp nhận các em học sinh trở về công tác tại đơn vị nghệ thuật do Sở quản lý sau khi đã hoàn thành khóa đào tạo và tốt nghiệp.
2.6. Các đơn vị nghệ thuật truyền thống ở Trung ương và địa phương
- Các đơn vị nghệ thuật ở Trung ương phối hợp với Cục Nghệ thuật biểu diễn, Vụ Đào tạo để xây dựng chi tiết nội dung, kế hoạch đào tạo chuyên môn;
- Xây dựng kế hoạch chi tiết về công tác tuyển sinh tại địa phương và tổ chức sơ tuyển dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hoá và Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố;
- Chịu trách nhiệm phối hợp với gia đình có con em theo học khóa đào tạo diễn viên, nhạc công để theo dõi, đôn đốc các em học tập và rèn luyện đạt kết quả tốt trong suốt quá trình học tập; tiếp nhận học sinh dự tuyển tại địa phương về công tác sau khi đã hoàn thành chương trình đào tạo;
2.7. Các Đơn vị đào tạo nghệ thuật
- Triển khai công tác đào tạo nghệ thuật và đào tạo kiến thức văn hóa theo đúng giáo trình, giáo án của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bố trí phòng học, nơi ăn ở cho học sinh;
- Tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên, các nghệ sỹ, nghệ nhân giảng dạy và truyền nghề cho học sinh trong quá trình triển khai công tác đào tạo.
3. Quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của gia đình có con em trúng tuyển
- Được nhà nước bao cấp tiền ăn, ở và không phải đóng học phí trong suốt quá trình học tập.
- Được hưởng chế độ học bổng theo quy định hiện hành, được trang bị quần áo, giày, tất và các phương tiện luyện tập theo quy định tại Quyết định số 41/2014/QĐ-TTg ngày 21 tháng 07 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hóa - nghệ thuật.
- Học bổng hàng tháng được xét theo kết quả học tập của học sinh trong từng học kỳ của từng học sinh.
- Các em học sinh tuyệt đối tuân thủ các quy định của Ban Tổ chức, Ban Quản lý học sinh, Nhà trường, giáo viên trực tiếp giảng dạy. Sau khi học xong, học sinh trở về công tác tại đơn vị nghệ thuật tại địa phương, nơi tham gia xét tuyển.
- Gia đình có con, em trúng tuyển khóa đào tạo diễn viên, nhạc công nghệ thuật truyền thống phải cam kết bằng văn bản việc phối hợp với các cơ quan chức năng giáo dục các em trong quá trình học tập; cam kết sau khi hoàn thành khóa học đưa các em về công tác tại đơn vị nghệ thuật ở địa phương. Trường hợp các em không trở về công tác tại địa phương hoặc bỏ việc để theo ngành nghề khác, gia đình chịu trách nhiệm hoàn trả lại nhà nước toàn bộ kinh phí trong suốt quá trình đào tạo.
4. Nguồn kinh phí: Kinh phí thực hiện đề án trích từ ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và địa phương.
4.1. Ngân sách trung ương: Đảm bảo kinh phí xây dựng giáo trình, tài liệu giảng dạy và học tập, thù lao giảng dạy, thiết bị, đạo cụ phục vụ dạy nghề; kinh phí tổ chức (thù lao cho Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức, Hội đồng tuyển sinh, Ban Quản lý, chi phí tuyển sinh vòng chung tuyển…); kinh phí thuê địa điểm giảng dạy; kinh phí ăn, ở, cấp bù tiền học phí; chế độ ưu đãi nghề, khen thưởng khuyến khích học tập cho các em trong quá trình đào tạo.
4.2. Ngân sách địa phương: Đảm bảo kinh phí triển khai thực hiện công tác tổ chức, thù lao Hội đồng tuyển sinh vòng sơ tuyển tại địa phương.
4.3. Gia đình có con em trúng tuyển khóa đào tạo diễn viên, nhạc công có trách nhiệm lo chi phí đi lại và trang bị sách giáo khoa theo quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo cho con em mình trong suốt quá trình theo học khóa đào tạo diễn viên, nhạc công thuộc đề án này.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Căn cứ vào tính cấp thiết của Đề án, tình hình thực tế của các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong cả nước hiện nay, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch kiến nghị các Bộ, ngành trung ương và địa phương:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan hỗ trợ đầu tư về cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo nghệ thuật;
- Bộ Tài chính ban hành theo thẩm quyền các văn bản liên quan đến chính sách tài chính bổ sung kinh phí hàng năm để Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch tổ chức và triển khai thực hiện công tác tuyển sinh, đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch giai đoạn 2016 - 2020;
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Tài chính, Sở Nội vụ, các đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện nội dung đề án đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương và Dân ca kịch cho các đơn vị nghệ thuật tại địa phương.
Trong quá trình tổ chức triển khai đề án, nếu có phát sinh khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, đơn vị và cá nhân phản ảnh về Cục Nghệ thuật biểu diễn để tổng hợp báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét, hướng dẫn thực hiện./.